Quá Trình Cạnh Niêm Mạc Chuyển Phôi

Quá Trình Cạnh Niêm Mạc Chuyển Phôi

%PDF-1.7 %µµµµ 1 0 obj <>/Metadata 186 0 R/ViewerPreferences 187 0 R>> endobj 2 0 obj <> endobj 3 0 obj <>/ExtGState<>/XObject<>/ProcSet[/PDF/Text/ImageB/ImageC/ImageI] >>/MediaBox[ 0 0 612 792] /Contents 4 0 R/Group<>/Tabs/S/StructParents 0>> endobj 4 0 obj <> stream xœÕ=Mo[É‘wþïHÑS÷ë@ð@_Í–�±2‹ ÈAæ(¢à¥™¡Œ�Ÿ—œó°sž=­/9,°UÝ�")vQzÍzT 2ùÈauUWW×wíìý4¹üËÙpRíîîìM&gÃÑù÷ÕŸvN¯oþ¼súËÍùÎÛ³‹ËñÙäòz¼óîöýŸŸ}þÓ‹ÕþáAõãóg¢ø¿ U%*}PÕOçÏŸýçoªñógû§ÏŸí¼”•”µ0Õé_ž?“ð=QÁ“j'+olm]uzßûú�¯.~†ß¬.⻦}÷õógT[®Nÿãù³#øÅß?ö0høRuôú Ú!ÐÜ¿žL®¯hL_^_OX0µ^Ô²Ò¶øÁU‹ßhÁ—¬©´«¬´µ²•1sŸ·Ï4

%PDF-1.7 %µµµµ 1 0 obj <>/Metadata 186 0 R/ViewerPreferences 187 0 R>> endobj 2 0 obj <> endobj 3 0 obj <>/ExtGState<>/XObject<>/ProcSet[/PDF/Text/ImageB/ImageC/ImageI] >>/MediaBox[ 0 0 612 792] /Contents 4 0 R/Group<>/Tabs/S/StructParents 0>> endobj 4 0 obj <> stream xœÕ=Mo[É‘wþïHÑS÷ë@ð@_Í–�±2‹ ÈAæ(¢à¥™¡Œ�Ÿ—œó°sž=­/9,°UÝ�")vQzÍzT 2ùÈauUWW×wíìý4¹üËÙpRíîîìM&gÃÑù÷ÕŸvN¯oþ¼súËÍùÎÛ³‹ËñÙäòz¼óîöýŸŸ}þÓ‹ÕþáAõãóg¢ø¿ U%*}PÕOçÏŸýçoªñógû§ÏŸí¼”•”µ0Õé_ž?“ð=QÁ“j'+olm]uzßûú�¯.~†ß¬.⻦}÷õógT[®Nÿãù³#øÅß?ö0høRuôú Ú!ÐÜ¿žL®¯hL_^_OX0µ^Ô²Ò¶øÁU‹ßhÁ—¬©´«¬´µ²•1sŸ·Ï4

Cấu tạo niêm mạc ruột là gì?

Niêm mạc ruột được xem như một hàng rào bảo vệ vật lý và miễn dịch, bao gồm một số yếu tố hỗ trợ chức năng:

Lớp chất nhầy là tuyến bảo vệ vật lý đầu tiên mà các phân tử bên ngoài gặp phải khi đến lòng ruột, giúp ngăn vi khuẩn tiếp xúc trực tiếp với tế bào biểu mô. Các khối cấu tạo chính của lớp chất nhầy có cấu trúc dạng lưới, giống như gel bên trên biểu mô ruột.

Ruột non chỉ có một lớp gel nhầy, trong khi đại tràng có hai lớp:

Các chất điều hòa miễn dịch (AMP và sIgA) được giải phóng trong gel nhầy, hỗ trợ quá trình phân tách vật lý của hệ vi sinh vật. Thành phần của lớp chất nhầy có thể ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật trong ruột, đồng thời hệ vi sinh vật cũng quyết định tính chất của gel nhầy.

Bên dưới lớp chất nhầy, các tế bào biểu mô được xem là yếu tố quyết định mạnh nhất của hàng rào vật lý đường ruột. Một nhóm các tế bào gốc đa năng tạo ra năm loại tế bào khác nhau, bao gồm:

Các tế bào này cùng nhau tạo thành một lớp đơn phân cực và liên tục ngăn cách lòng ruột với lớp đệm. Vì màng tế bào không thấm nước, nên các chất hòa tan ưa nước nếu không có chất vận chuyển cụ thể sẽ bị hạn chế rất nhiều. Niêm mạc ruột không được xem là một cấu trúc tĩnh, vì chúng có tính năng động cao và đáp ứng với các kích thích cả bên trong lẫn bên ngoài (ví dụ như cytokine, vi khuẩn, các yếu tố chế độ ăn uống).

Niêm mạc ruột không được xem là một cấu trúc tĩnh

Nghiên cứu về Almagate trong Y học

Hiệu quả của almagate trong bệnh trào ngược dạ dày thực quản: phân tích hậu kiểm của một nghiên cứu mù đôi ngẫu nhiên, chéo

Almagate (nhôm-magie hydroxy cacbonat hydrat) là một thuốc kháng axit được sử dụng rộng rãi ở Tây Ban Nha dưới dạng thuốc không kê đơn. Tuy nhiên, dữ liệu về việc kiểm soát độ axit ở bệnh nhân mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) còn khan hiếm. Ở đây chúng tôi báo cáo một phân tích hậu kiểm về một thử nghiệm mù đôi chéo ngẫu nhiên (ALR-006; dữ liệu trong hồ sơ), trong đó liều uống tương đương (1,5 g) của hai công thức almagate (AlmaxRetard® và Almax®, Laboratorios Almirall , Barcelona, ​​Tây Ban Nha) đều có tác dụng điều trị viêm thực quản trào ngược.

Almagate can thiệp vào kết quả xét nghiệm hơi thở để chẩn đoán nhiễm Helicobacter pylori

Đặt vấn đề: Nhiễm Helicobacter pylori là bệnh phổ biến và ảnh hưởng đến cả hai giới ở mọi lứa tuổi. Xét nghiệm hơi thở 13C-urea là xét nghiệm được sử dụng rộng rãi để chẩn đoán bệnh nhiễm trùng này. Tuy nhiên, nhiều loại thuốc được sử dụng để điều trị các triệu chứng nhiễm Helicobacter pylori có tương tác với xét nghiệm hơi thở này tạo ra kết quả âm tính giả. Nghiên cứu quan sát này nhằm đánh giá sự tương tác tiềm ẩn giữa almagate và bài kiểm tra hơi thở.

Almagate can thiệp vào kết quả xét nghiệm hơi thở để chẩn đoán nhiễm Helicobacter pylori

Phương pháp: Bao gồm 30 đối tượng đang điều trị bằng almagate đã trải qua kiểm tra hơi thở. Nếu kết quả âm tính, almagate sẽ bị hủy trong một tháng và sau đó lặp lại bài kiểm tra hơi thở.

Kết quả: Nhìn chung, 51,9% đối tượng được đánh giá có kết quả âm tính sau lần xét nghiệm đầu tiên và 100% trong số này cũng có kết quả âm tính sau lần xét nghiệm thứ hai.

Kết luận: Người ta kết luận rằng việc sử dụng almagate không ảnh hưởng đến kết quả kiểm tra hơi thở. Những kết quả này cung cấp một lựa chọn điều trị bằng thuốc để điều trị các triệu chứng liên quan đến nhiễm Helicobacter pylori trong quá trình chẩn đoán.

Tên thương hiệu: Aluantine Tablet, Gasmagel , Thidamagel, Soares, Ampetox, Malgas Suspension, Il-yang Almagate suspension, Aldrin, Almagate, Ilmagino suspension, Almagain, Apruxton, Yumangel F, Yumangel Suspension.

Tác động của chế độ ăn uống và lối sống đến vai trò của niêm mạc ruột

Thực phẩm không chỉ là một nguồn chất dinh dưỡng quan trọng, mà còn đóng vai trò điều chỉnh các chức năng sinh lý khác nhau trong đường tiêu hóa, bao gồm chức năng niêm mạc đường ruột. Flavonoid là một ví dụ về các thành phần có nguồn gốc thực vật đã được chứng minh đem đến lợi ích cho hàng rào biểu mô. Flavonoid có nhiều trong hầu hết các loại rau, trái cây, trà xanh và đen, rượu vang đỏ, socola, cà phê. Theo nghiên cứu trên chuột, chiết xuất quả nam việt quất giàu flavonoid làm tăng đáng kể tỷ lệ Akkermansia, một vi khuẩn phân hủy mucin cư trú trong lớp chất nhầy của ruột.

Gần đây, các chất phụ gia thực phẩm công nghiệp được sử dụng rộng rãi để cải thiện chất lượng của thực phẩm, nhưng cũng có liên quan đến rối loạn chức năng niêm mạc ruột và làm tăng tỷ lệ mắc các bệnh suy giảm miễn dịch. Ví dụ carboxymethylcellulose và polysorbate-80 là hai chất phụ gia được ứng dụng phổ biến nhất trong ngành công nghiệp thực phẩm. Khi tiêu thụ nhiều thực phẩm chế biến hàng ngày, chúng làm giảm độ dày của chất nhầy, khiến vi khuẩn tiếp xúc nhiều hơn với biểu mô,...

Chế độ ăn nhiều chất béo và đường (chế độ ăn phương Tây) cũng làm thay đổi thành phần hệ vi sinh vật ở chuột, giảm độ dày lớp chất nhầy với ít tế bào hình đài hơn và tăng nồng độ dấu hiệu viêm.

Cùng với các hợp chất dinh dưỡng, vitamin, khoáng chất và các nguyên tố vi lượng từ thực phẩm cũng có liên quan đến thay đổi niêm mạc ruột. Cụ thể hơn, sự thiếu hụt vitamin D, A và kẽm đã được phát hiện là làm tổn thương hàng rào biểu mô, tăng nguy cơ nhiễm trùng, viêm.

Các nghiên cứu đã cho thấy tác động của việc uống ethanol đối với hàng rào biểu mô ruột. Cụ thể, ethanol và chất chuyển hóa acetaldehyde đã được phát hiện làm giảm chức năng niêm mạc ruột bằng cách gây tổn thương trực tiếp đến các tế bào biểu mô, phá vỡ tế bào xương và kích hoạt các phản ứng stress oxy hóa. Hệ vi sinh vật cũng là trung gian tác động của rượu vì có tham gia vào quá trình sản xuất acetaldehyde. Lạm dụng rượu mãn tính có thể làm trầm trọng thêm tình trạng rối loạn tiêu hóa.

Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) được biết là gây tổn hại đến đường tiêu hóa, do đó bác sĩ thường kê đơn cùng với thuốc ức chế bơm proton (PPI) để giảm tỷ lệ tổn thương dạ dày - tá tràng do NSAID gây ra. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa NSAID và PPI không ngăn ngừa được các tổn thương ở ruột non và ruột già, thậm chí có thể làm trầm trọng thêm tác dụng của thuốc đối với hàng rào niêm mạc ruột.

Tác động của việc hút thuốc lá đối với sức khỏe đường ruột còn rất mâu thuẫn và có một số vấn đề không thể giải thích được, đặc biệt là trong bệnh viêm loét đại tràng. Nhìn chung, những rủi ro tiềm ẩn của việc hút thuốc lá đối với niêm mạc đường ruột chắc chắn có tồn tại. Khói thuốc thực sự có thể thắt chặt hàng rào ruột, nhưng tác động này sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm di truyền, các kích thích cụ thể của bệnh, vị trí đường ruột, kiểu tiếp xúc với khói, cũng như tương tác với các yếu tố miễn dịch và vi sinh vật.

Căng thẳng là một yếu tố lối sống có liên quan đến sự suy giảm niêm mạc đường ruột (thông qua các tương tác giữa ruột và não). Đây cũng là một yếu tố nguy cơ khởi phát và kích hoạt lại các rối loạn tiêu hóa mãn tính. Hầu hết các nghiên cứu về tác động của căng thẳng đối điều hòa niêm mạc ruột đều được thực hiện trên động vật, dữ liệu ở người còn hạn chế.

Các nghiên cứu gần đây cũng đã chú ý đến căng thẳng do tập thể dục (sự kết hợp giữa căng thẳng thể chất và tâm lý). Cụ thể, các vận động viên thường lên cơn đau bụng do giải phóng hormone căng thẳng trong quá trình hoạt động thể chất cường độ cao. Tuy nhiên mức độ của các phản ứng có thể phụ thuộc vào mức độ stress, di truyền và kinh nghiệm sống của cá nhân.

Tóm lại, lớp chất nhầy và các tế bào biểu mô ruột là yếu tố quyết định chính của niêm mạc ruột và có vai trò cơ bản đối với sức khỏe. Chế độ ăn phương Tây, uống nhiều rượu, căng thẳng và một số loại thuốc nhất định có tác động bất lợi đến vai trò của niêm mạc ruột. Rối loạn chức năng niêm mạc ruột có thể liên quan đến bệnh viêm ruột, bệnh celiac và bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Các vai trò của niêm mạc ruột trong nhiều bệnh rối loạn ngoài ruột khác cần được nghiên cứu thêm.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Nguồn tham khảo: Nature.com, Ncbi.nlm.nih.gov

Almagate có tác dụng kháng acid và cải thiện các chứng bệnh ở Đường tiêu hóa. Almagate thường được chỉ định trong các trường hợp người bệnh điều trị các bệnh loét dạ dày, loét tá tràng, viêm dạ dày, các chứng bệnh do tăng tiết acid (ợ nóng, buồn nôn, nôn, đau dạ dày, chứng ợ), bệnh trào ngược thực quản. Trong bài viết này, Trung Tâm Thuốc Central Pharmacy (trungtamthuoc.com) xin gửi đến bạn đọc những thông tin về chất Almagate.

Almagate thuốc nhóm nào? Almagate (tên thương mại Almax) là một thuốc kháng axit chứa nhôm và magie. Nó được mô tả lần đầu tiên vào năm 1984.

Almagate là một hợp chất kháng acid mới (aluminium-magnesium hydroxycarbonate ngậm nước, Al2Mg6(OH)14(CO3)2.4H2O).

Với khả năng đệm trung hòa, Almagate có tác dụng kháng acid mạnh. So với aluminium hydroxide, nó hiệu quả hơn trong việc làm tăng pH và làm giảm độ acid toàn phần của dịch vị nhanh hơn mà không ảnh hưởng đến thể tích tiết dịch cũng như không tác dụng phụ gây táo bón.

Almagate cũng ức chế đáng kể hoạt động của pepsin trong dịch vị ngay cả sau khi điều chỉnh đến pH = 2 là pH hoạt động tối ưu của enzym mà điều này không thấy ở aluminum hydroxide.

Ngoài ra, Almagate còn có khả năng bao phủ đồng đều tạo một màng bảo vệ trên niêm mạc thực quản và dạ dày.

Thuốc không hấp thu ở ruột và được thải trừ qua phân.

Almagate có tác dụng trung hòa acid dạ dày nhanh chóng và kéo dài, duy trì pH dạ dày ở mức bình thường (pH=3 – 5) trong một giai đoạn dài do nó có cấu trúc mạng tinh thể vững chắc.

Almagate dạng hỗn dịch tạo ra một lớp màng nhầy tương tự lớp chất nhầy trên bề mặt niêm mạc dạ dày, bởi vậy nó có tác dụng bảo vệ tính toàn vẹn của lớp chất nhầy, giảm sự tổn thương trực tiếp vào các tế bào biểu mô.

Almagate hấp thụ và làm mất hoạt tính của acid mật, khi chất này trào ngược vào dạ dày và có thể làm cho các rối loạn về dạ dày ruột trở nên trầm trọng hơn. Đồng thời nó cũng làm giảm hoạt động của pepsin.

Almagate có tác dụng loại bỏ gốc tự do, yếu tố gây phá huỷ lớp chất nhầy niêm mạc dạ dày.

Almagate là gì? Almagate được chỉ định sử dụng trong các trường hợp:

Bệnh nhân mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc.

Suy thận nặng (nguy cơ tăng magnesi huyết).

Trẻ nhỏ (nguy cơ tăng magnesi huyết và nhiễm độc nhôm, đặc biệt ở trẻ bị mất nước hoặc trẻ bị suy thận).

Người lớn: 15ml/ lần, số lần dùng thuốc trong này tùy thuộc vào bệnh và mức độ trầm trọng của bệnh.

Trẻ 6 - 12 tuổi: Nửa liều người lớn.

Thuốc được dùng theo đường uống.

Đối với bệnh loét dạ dày tá tràng, liều thuốc thường cho theo kinh nghiệm và nhiều liều khác nhau đã được dùng. Ở người loét dạ dày hoặc tá tràng không có biến chứng, cho uống thuốc 1 - 3 giờ sau khi ăn và lúc đi ngủ. Một đợt dùng thuốc trong khoảng 4 - 6 tuần hoặc tới khi vết loét liền. Ở người bệnh bị trào ngược dạ dày thực quản, ở người có chảy máu dạ dày hoặc loét do stress, thuốc được dùng mỗi giờ 1 lần. Với người bệnh chảy máu dạ dày, phải điều chỉnh liều antacid để duy trì được pH dạ dày bằng 3,5. Để giảm nguy cơ hít phải acid dạ dày trong quá trình gây mê, thuốc antacid được dùng trước khi gây mê 30 phút.

Tác dụng không mong muốn liên quan đến thuốc kháng acid chứa magnesi

Tác dụng không mong muốn liên quan đến nhôm hydroxyd

Thuốc kháng acid làm tăng hoặc giảm tốc độ và mức độ hấp thu các thuốc khác, khi dùng phối hợp, do làm thay đổi thời gian thuốc ở trong ống tiêu hóa, hoặc do có sự liên kết hoặc tạo phức với chúng.

Các thuốc kháng acid làm giảm hấp thu các thuốc: Digoxin, Indomethacin, muối Sắt, Isoniazid, clodiazepoxid, naproxen.

Thuốc kháng acid làm tăng hấp thu dicoumarol, pseudoephedrin, Diazepam.

Thuốc kháng acid làm tăng pH nước tiểu, làm giảm đào thải các thuốc là base yếu (amphetamin, quinidin), tăng đào thải các thuốc là acid yếu (Aspirin).

Tránh điều trị liều cao lâu dài ở bệnh nhân suy thận.

Ở người suy thận nặng đã gặp tăng magnesi huyết (gây hạ huyết áp, suy giảm tâm thần, hôn mê). Do đó, không nên dùng magnesi antacid cho người suy thận.

Cần dùng thận trọng với người có suy tim sung huyết, suy thận, phù, xơ gan và chế độ ăn ít natri và với người mới bị chảy máu đường tiêu hóa.

Người cao tuổi do bệnh tật hoặc do điều trị thuốc có thể bị táo bón và phân rắn. Cần thận trọng về tương tác thuốc.

Kiểm tra định kỳ hàng tháng hoặc 2 tháng 1 lần nồng độ phosphat trong huyết thanh cho người bệnh chạy thận nhân tạo và dùng lâu dài thuốc kháng acid chứa nhôm.

Phụ nữ có thai: Đã có thông báo tác dụng không mong muốn như tăng hoặc giảm Magie máu, tăng phản xạ gân ở bào thai và trẻ sơ sinh, khi người mẹ dùng thuốc magnesi antacid lâu dài và đặc biệt với liều cao.

Phụ nữ cho con bú: Mặc dù một lượng nhỏ nhôm, magnesi bài tiết qua sữa, nhưng nồng độ không đủ để gây tác hại đến trẻ bú mẹ.